Tên di sản : Đình Làng Giữa

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di sản : Di tích kiến trúc nghệ thuật

Sô quyết định : Số 69/QĐ – CT

Giới thiệu

 

Đình làng Giữa nằm ở trung tâm xã Xuân Quang, quay mặt về hướng Nam, nơi từng được mệnh danh là Sơn kỳ, Thuỷ tú, Trung linh Vượng khí, có "núi án" và "nước ngưng" với núi Yên Ngựa và sóng nước Long Hồ lung linh huyền thoại. Ở đây rất thuận tiện về giao thông thuỷ bộ. Khi có kênh dẫn thuỷ từ Bái Thượng đi qua từ năm 1920, Xuân Quang có thêm đường thuỷ, vì vậy từ Xuân Quang có thể xuôi Triệu Sơn, Đông Sơn, Thành phố Thanh Hoá, ngược Bái Thượng, Ngọc Lặc, Thường Xuân bằng thuyền buồm.

Do địa hình cảnh quan là một bán sơn địa chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng, vì vậy, khu vực này con người từ miền núi phía tây Thanh Hoá đã tiến xuống vùng chân núi sinh sống. Tại Cầu Kiêu Han, Dùi Trống đã khai quật được nhiều hiện vật thời Đông Sơn, đặc biệt trong đó có hai trống đồng có đường kính mặt 45cm.

Làng Giữa - Bàn Thạch - Xuân Quang trở thành một trong những đất quan hà trù phú thường được nhắc tới trong các trang sử thời Lý - Trần - Lê mà ngày nay còn in đậm mãi trong truyền thuyết, nơi gắn bó tình nặng nghĩa sâu với các vua nhà Lê.

Do thời tiết khắc nghiệt, bị lụt bao làm hỏng nhiều, những qua nhiều năm do có ý thức bảo vệ của dân làng, hiện tại ngôi đình vẫn giữ được diện mạo và dáng vẻ ban đầu.

Đình được nằm trên một khu đất rộng, theo bản đồ địa chính có diện tích 701m2 với các hạng mục công trình công - sân - đại đình.

Cổng đình: liền kề sát với sân đình được tạo tác gồm 4 cột nanh 2 cột lớn và 2 cột nhỏ được xây vuông vức và có đường gờ chỉ. Đây là những cột nanh mới được xây dựng trong mấy năm trở lại đây. Phía trước đình còn có hệ thống tường rào bao bọc.

Sân đình: Được lát gạch bát màu đỏ, có chiều dài 18m x rộng 7,30m = 131,4m2, bề mặt sân nhiều viên gạch đã bị vỡ, cỏ xanh mọc nhiều ở những chỗ gạch bị hư hỏng.

Toà Đại Đình: gồm 5 gian 6 vì được kiến trúc theo kiểu "chồng rường kẻ bẩy". Phần ngoại thất của công trình đã bị thay đổi ít nhiều ở bờ nóc và bờ dải. Bờ nóc đã được thay thế bằng ngói úp, đấu trụ hai bên bờ nóc không có hoa văn cũng không còn dáng vẻ ban đầu. Ở phía trước hiên, do lâu ngày, phần ngói lợp đã được thay bằng 3 hàng ngói hoà bình. Các bức tường hậu đã bị dỡ bỏ, chỉ còn lại 1 bức tường duy nhất ở gian giữa. Nhìn chung phần ngoại thất về cơ bản đã bị sửa chữa và thay đổi diện mạo đi nhiều.

Phần nội thất của công trình là một bộ khung gỗ to, vững chắc, bề thế với những mảng chạm khắc nghệ thuật tinh xảo, độc đáo.

Toàn bộ khung nhà có 6 vì kèo gỗ. Sườn được làm bằng gỗ lim. Tổng số cột cái 12 và 12 cột quân. Chu vi cột cái 123cm, cột con 110cm. Chiều cao của cột cái 4,28m2, cột quân 3,154m2.

Diện tích của toà Đại đình dài 18m x rộng 8,39m = 151,2m2 được phân chia thành những bước gian như sau: (Tính từ trái qua phải, gian chái 0,7m, gian thứ nhất rộng 3m, gian thứ 2 rộng 3,05m, gian thứ 3 (gian giữa) 3,2m, gian thứ 4: 3,05m, gian thứ 5: 3,10m, gian (trái phải 0,7m).

Nghiên cứu mỗi bộ vì nóc thấy chức năng giá trị của nó qua một số chi tiết như: bộ vì nóc được kết cấu theo kiểu chồng rường. Mỗi bộ vì nóc như vậy gồm có 4 con rường chồng lên nhau bắt đầu từ quá giang lên đến thượng lương. Từ quá giang nối v��i hai đầu cột cái của mái trước và sau là hệ thống các con rường lên đến thượng lương.

Các con rường này được ngăn cách với nhau bằng các dấu vuông nhỏ và dẹt. Tại mỗi đầu các con rường được đặt các ô trống lá dong để đổ các hoành tải. Các con rường này được chạm nổi hình lá cúc cách điệu.

Ngoài hệ thống các con rường là hệ thống các kẻ chuyên được ăn mộng từ đầu cột cái nằm gác dầu trên xà đùi. Xà đùi ở mỗi vì được ăn mộng vào cột lớn ở phía dưới xà dọc, đầu kia ăn mộng vào đầu cột quân. Từ đầu cột quân này lại là 1 kẻ bấy ăn mộng vào đầu cột quân chạy ra phía trước và phía sau các đầu trên tàu mái. Kết cấu này được cấu trúc giống nhau ở 4 vì kèo giữa. Riêng 2 vì kèo vỉ hệ thống các con rường được thay thế bằng một tấm gỗ lớn được cấu trúc hình tam giác theo chiều mái nhà, từ thượng lương xuống đến quá giang. Tại đây, người thợ đã chạm khắc mặt hổ phù ngậm chữ thọ, xung quanh là hệ thống rồng trong vân mây đang quấn quýt lấy nhau với những đường nét uốn lượn khoẻ mạnh. Mặt hồ phù được chạm khắc xen lẫn trong những đạo mác ngắn và đao mác dài lượn sóng. Mặt hổ phù trán do, mắt lồi, mõm ngắn, đầu bay ra những dải râu nhọn cong về phía sau, trông dữ tợn. Hai đầu hổ phù này đều được chạm khắc giống nhau về kiểu đề tài.

Để cho ngôi đình phong phú về mỹ thuật, ngoài những bộ phận trong kiến trúc được chạm khắc tỉ mỉ với đề tài hình lá cúc, hình rồng, thì nghệ thuật trang trí còn được làm từ những bộ phận ngoài kiến trúc như các bức chạm cây cỏ, hoa lá, chim thú được gắn vào trên các bác cốn mê ở các vị và các ô xuân hoa ở ô trước cửa ra vào giữa hiên và nhà trong. Tất cả được chạm khắc tỉ mỉ trau chuốt với một kỹ thuật chạm bong nổi, phối hợp với kết cấu kiến trúc đem lại cảm giác mức độ, thanh mảnh của toàn bộ nội thất toà nhà. Trên Thương lượng có dòng chữ ghi năm hưng tạo ngôi đình "Hoàng Triều Tự Đức, nhị thập, nhị niên" (1869).

Tóm lại: Nhìn chung, các mảng chạm khắc cũng như kết cấu của công trình. Đình làng Giữa là một trong những ngôi đình thời Nguyễn đẹp và có giá trị, của một công trình văn hoá mang tính mỹ thuật cao của làng xã.

Loại di tích:

Đình làng giữa thuộc loại di tích kiến trúc nghệ thuật.

Các hiện vật trong di tích:

Hương án

Ngai thờ và bài vị

Bát hương sứ

Mâm bồng

Hạc thờ

Cây nến gỗ

Ống hương

Đài nước

Ngoài những hiện vật nêu trên, di tích còn lưu giữ được bản thân tích (đã được dịch) về vị thần Cao Sơn được thờ ở Đình làng Giữa. Các sắc phong đã được dịch (bản gốc đã bị thất lạc).

 

Hình ảnh Đình Làng Giữa

Đình Làng Giữa

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật